NGÔN
NGỮ PHẢI DÙNG TRONG CÁC NGHI LỄ PHỤNG VỤ CÓ CA HÁT, VÀ VIỆC BẢO TỒN
DANH MỤC THÁNH NHẠC :
47. Theo Hiến chế Phụng vụ, phải duy trì
việc dùng La ngữ trong các nghi
lễ la-tinh, trừ khi có đặc quyền
(27). Tuy nhiên, bởi vì việc dùng tiếng bản quốc nhiều khi có thể hữu ích cho dân chúng (28) nên "thẩm quyền Giáo Hội địa phương có bổn phận ấn định dùng tiếng bản quốc hay không, và dùng cách nào qua một văn kiện được Tòa Thánh xét duyệt và chuẩn nhận" (29).
Khi giữ đúng các
qui tắc đó, thì sẽ dùng hình
thức tham dự nào thích hợp hơn cả với các
khả năng của mỗi cộng đoàn. Các vị chủ chăn phải liệu
sao cho bên cạnh tiếng bản quốc, tín hữu biết hát hoặc đọc chung với nhau bằng tiếng la-tinh,những bài trong Phần thường lễ dành riêng cho họ (30).
48. Nơi nào đã được phép dùng tiếng bản quốc trong khi cử hành thánh lễ, các
đấng bản quyền phải xét xem nên
duy trì một hoặc nhiều
thánh lễ cử hành bằng tiếng la-tinh
- đặc biệt là lễ
hát trong một vài thánh đường, nhất là ở những đô thị lớn, nơi có
một số khá đông tín hữu nói nhiều ngôn ngữ khác nhau.
49. Về việc dùng tiếng la-tinh
hay tiếng bản quốc trong các
buổi cử hành phụng vụ tại các chủng viện, phải tuân
theo những qui tắc của Thánh Bộ Chủng Viện và Đại Học, về việc huấn luyện phụng vụ cho các học
viên. Trong vấn đề này, các phần
tử của các tu hội có ba lời
khấn
phải tuân theo những qui tắc trong Tông thư Sacrificium laudis
ngày 15.8.1966, cũng như trong Huấn thị về ngôn ngữ các
tu sĩ, tu viện phải dùng khi
đọc kinh phụng vụ, và cử hành thánh lễ tu viện do Thánh Bộ nghi thức công bố ngày 23.11.1965 (31).
50.
Trong
những nghi lễ phụng vụ có ca hát cử hành bằng tiếng La tinh thì :
a.
Ca điệu Ghê-go-ri-ô phải được ưu tiên vì là loại ca
riêng của phụng vụ Rôma, (32) dù giả thiết các loại nhạc đều ngang nhau. Do đó, tùy
khả
năng, phải dùng những cung điệu trong
các bản in chính thức làm mẫu.
b. Cũng nên soạn một sách gồm những bài cung điệu đơn giản hơn, để dùng trong các
nhà thờ nhỏ (33).
c. Các sáng tác
khác đã được soạn cho một hay nhiều bè, dù lấy
trong danh mục cổ truyền, hay là những tác phẩm mới, phải được tôn trọng, ưu đãi, và sử dụng tùy theo khả năng (34).
51. Khi lưu ý
đến
các điều kiện địa phương, và lợi ích mục vụ của tín hữu cũng như đặc tính của mỗi ngôn ngữ, các vị
chủ chăn phải xét xem các
bản
thuộc ca mục thánh
nhạc đã được sáng tác
trong quá khứ cho các bản văn la-tinh,
ngoài ra việc sử dụng chúng trong các lễ nghi phụng vụ cử hành bằng tiếng la-tinh, có thể cũng được dùng trong những lễ nghi phụng vụ cử hành bằng tiếng bản xứ mà không có gì bất tiện hay
chăng ? Quả thật, trong cùng một buổi cử hành phụng vụ vẫn có thể hát một vài bài bằng ngôn ngữ
khác.
52. Để bảo toàn ca mục Thánh Nhạc và cổ võ đích đáng những tác phẩm mới, phải hết sức chú trọng đến
việc dạy và thực hành âm nhạc trong các chủng viện, tập viện tu sĩ nam nữ, và các
học
viên của họ, và cả trong
các học viện và học đường công giáo, nhưng nhất là
tại những viện cao đẳng đặc biệt dành cho khoa đó (35). Trước hết phải đẩy mạnh việc học hỏi và ca
hát nhạc Ghê-go-ri-ô vì những đức tính đặc biệt của nó, nhạc này vẫn là nền tảng có giá trị cao để vun trồng thánh nhạc.
53. Những sáng tác mới về thánh nhạc phải hoàn toàn phù hợp với những nguyên tắc và qui luật trình bày trên dây. Vì thế, những sáng tác
này phải biểu lộ những đặc diểm của thánh nhạc thực sự, và có thể được
hát không những do các ca đoàn lớn, mà cả các
ca đoàn nhỏ nữa,lại giúp toàn thể cộng đoàn tín hữu tích
cực tham dự lễ nghi (36).
Còn về ca mục cổ
truyền, trước hết phải đề cao những bài đáp ứng các
đòi
hỏi của phong
trào chấn hưng phụng vụ.
Sau đó, những nhà chuyên môn đặc biệt có thẩm quyền trong phạm vi này, sẽ nghiên cứu cẩn thận xem có
những bài nào thích hợp với những đòi hỏi đó. Còn những bài nào không hợp với bản tính phụng vụ, hay không hợp để cử hành trong các
lễ
nghi phụng vụ, thì nên dùng vào các
"việc đạo đức",
hay tốt hơn, trong lúc suy tôn
Lời Chúa (37).
No comments:
Post a Comment